Kinh tế học là gì? – Economics là bộ môn mà hầu hết mọi người đều đã từng nghe qua ít nhất một lần. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ Economics là gì, cũng như đặc điểm, mục đích nghiên cứu, phân loại và các trường phái kinh tế học là gì. Nếu bạn cũng đang tìm hiểu về vấn đề này, cùng Giaodichtaichinh xem ngay bài viết sau!
Nội dung bài viết
Kinh tế học là gì?
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc trao đổi, sản uất phân phối và tiêu dùng các loại sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế học có thể định nghĩa là ngành khoa học xã hội nghiên cứu về quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Nó cũng nghiên cứu về cách thức sử dụng, quản lý các nguồn tài nguyên khan hiếm của cá nhân và xã hội.

Khái niệm kinh tế học – Economic là gì?
Kinh tế học chủ yếu nghiên cứu phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan hiếm của xã hội, tức là giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế:
- Sản xuất cái gì?
- Sản xuất như thế nào?
- Sản xuất cho ai?
Thực tế, nguồn lực được phân bổ không phải chỉ do nhà hoạch định duy nhất của chính phủ trung ương, mà còn thông qua sự tác động qua lại của hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Do vậy, kinh tế học cần tìm hiểu xem mọi cá nhân ra quyết định thế nào, quyết định làm việc bao nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm như thế nào và khoản tiết kiệm đó đầu tư ra sao.

Kinh tế học là gì
Kinh tế học cũng cần nghiên cứu, phân tích làm thế nào mà rất nhiều người mua cùng một sản phẩm lại có thể cùng nhau tạo ra một mức giá duy nhất và một lượng hàng ổn định. Mục tiêu cuối cùng, kinh tế học phải phân tích được các lực lượng và xu thế ảnh hưởng đến nền kinh tế với tư cách tổng thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân, thất nghiệp và sự gia tăng của giá cả.
Xem thêm: Hệ thống tài chính
Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế học
-
Giai đoạn 1: 1776 – 1936
Đặc điểm thực tiễn: Nền kinh tế của các nước TBCN phát triển ở giai đoạn tự do cạnh tranh, hầu hết các thị trường đều đạt trạng thái cân bằng.
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith với lý thuyết bàn tay vô hình : Thị trường là lực lượng duy nhất có thể điều tiết nền kinh tế. Kinh tế học vi mô ra đời
Đại khủng hoảng kinh tế (Great Depression 1929 – 1933), sự sụp đổ của TTCK Mỹ (Wall Street) vào năm 1929 khiến lý thuyết Adam Smith bị nghi ngờ.
-
Giai đoạn 2: 1936 – 1971
Đặc điểm thực tiễn: nền kinh tế các nước TBCN phát triển sang giai đoạn độc quyền, các cuộc đại khủng hoảng kinh tế liên tục xảy ra, suy thoái kinh tế toàn cầu không có dấu hiệu phục hồi
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh J.M.Keynes cho rằng: Chính phủ là lực lượng duy nhất có thể điều khiển được nền kinh tế (bàn tay hữu hình). Kinh tế học vĩ mô ra đời.
-
Giai đoạn 3: 1971 đến nay
Đặc điểm thực tiễn: nền kinh tế các nước TBCN liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự can thiệp của chính phủ (bàn tay hữu hình) đôi khi trở nên vô hiệu.
Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học Paul Samuelson cho rằng: muốn điều tiết nền kinh tế phải sử dụng cả hai tay (bàn tay vô hình và hữu hình) (Kinh tế học vĩ mô tổng hợp).
- Khủng hoảng Đông Á 1997
- Khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới 2008 – 2010
- Khủng hoảng nợ công châu Âu (từ 2010)
Bộ phân cấu thành kinh tế học
Kinh tế học có hai bộ phận cấu thành hữu cơ là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Các Nhà Kinh tế phân kinh tế học theo hai mức độ phân tích khác nhau: vi mô và vĩ mô.
Kinh tế học vi mô (microeconomics)
Kinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của cá nhân và doanh nghiệp, cũng như cách chúng tương tác trên thị trường. Nó tập trung vào các đơn vị kinh tế cụ thể để giải thích giá và lượng của hàng hóa.
Ngoài ra, kinh tế học vi mô còn xem xét tác động của các quy định và thuế của chính phủ đến giá và lượng hàng hóa, chẳng hạn như xe hơi, và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng xe hơi trên thị trường.
Kinh tế học vĩ mô (macroeconomics)
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế quốc gia và kinh tế toàn cầu, xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể, toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các yếu tố tổng thể như giá cả bình quân, tổng việc làm, thu nhập, và sản lượng của nền kinh tế, cùng với tác động của chính phủ thông qua thu ngân sách và chi tiêu. Ví dụ, vĩ mô tập trung vào tổng chi phí sống và thu chi ngân sách quốc gia.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng tách biệt với kinh tế học vi mô, vì nhiều vấn đề liên quan đến cả hai. Chẳng hạn, sự xuất hiện của video game ảnh hưởng đến cả nền kinh tế: vĩ mô xem xét tác động lên tổng chi tiêu và việc làm, trong khi vi mô tập trung vào giá, lượng sản phẩm và số người chơi.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận cấu thành quan trọng của môn kinh tế học. Trong thực tiễn quản lý kinh tế, cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển ổn định, bình đẳng và công bằng.
* Theo cách tiếp cận, kinh tế học được chia làm 2 dạng:
- Kinh tế học thực chứng: (positive analysis) mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi “Là gì? Là bao nhiêu? Là như thế nào?”.
- Kinh tế học chuẩn tắc: (normative analysis) lại liên quan đến quan điểm về đạo lý, chính trị của mỗi quốc gia, đó là việc đưa ra các phương án, các cách thức để giải quyết các vấn đề trong nền kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi “Nên làm cái gì?”.
Các trường phái kinh tế học
Kinh tế học cổ điển
Trường phái cổ điển là trường phái tư tưởng kinh tế thống trị vào thế kỷ XVIII và XIX. Nó được thành lập bởi các kinh tế gia như Adam Smith, David Ricardo, Thomas Malthus, John Stuart Mill,… Họ tập trung vào việc nghiên cứu cách thức hoạt động của thị trường tự do, phát triển lý thuyết về giá trị, cung cầu, phân phối và gần như loại bỏ sự can thiệp của chính phủ.
Kinh tế học hậu cổ điển
Trường phái hậu cổ điển bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ XX, được khởi xướng bởi John Maynard Keynes. Trường phái này cổ súy cho sự can thiệp của chính quyền để ổn định nền kinh tế, kích thích nhu cầu và tăng trưởng thông qua các chính sách tài khóa, tiền tệ.

John Maynard Keynes là người dẫn đầu cho trường phái hậu cổ điển
Kinh tế học Áo
Trường phái kinh tế Áo xuất phát từ cuối thế kỷ XIX, đại diện bởi Friedrich von Wieser, Eugen von Böhm-Bawerk, và Carl Menger. Họ tập trung vào phân tích hành động cá nhân trong kinh tế. Mặc dù bị chỉ trích vì bác bỏ kinh tế lượng và phân tích vĩ mô, trường phái này vẫn thu hút sự quan tâm từ các học giả và công luận vào những năm 1970, dù đã bị xem là dị giáo từ cuối thập niên 1930.
Kinh tế học Marx
Trường phái tư tưởng kinh tế Marx được xây dựng dựa trên công trình nghiên cứu của triết gia Karl Marx vào thế kỷ XIX. Trường phái này tập trung vào vai trò của lao động, quan hệ sản xuất và giai cấp xã hội. Ông tin rằng nguyên nhân chính của các vấn đề kinh tế chính là sự không công bằng xã hội do tình trạng bóc lột và khai thác tầng lớp công nhân của tầng lớp tư sản.
Song, các quan điểm của trường phái Marx không hoàn toàn được chấp nhận trong cộng đồng kinh tế hiện đại.

Marx là trường phái tư tưởng kinh tế quan trọng trong lịch sử
Kinh tế học học thuyết trò chơi
Trường phái học thuyết trò chơi do các kinh tế gia như John Nash, Thomas Schelling,… đại diện. Những người theo trường phái này sử dụng học thuyết trò chơi để nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, tập trung vào các chiến lược có tên trạng thái cân bằng trong trò chơi.
Đặc điểm của kinh tế học
Vấn đề cốt lõi trong kinh tế bắt nguồn từ sự khan hiếm các nguồn lực so với nhu cầu của xã hội. Bất kỳ một chủ thể nào trong nền kinh tế đều phải đối mặt với sự khan hiếm. Cụ thể:
- Các nguồn lực khan hiếm đối với cá nhân thể hiện ở tiền bạc (mong muốn nhiều nhưng thu nhập có hạn), thời gian (muốn làm nhiều nhưng thời gian có hạn).
- Với doanh nghiệp, sự khan hiếm sẽ nằm ở nguồn vốn, lao động giỏi, máy móc, thiết bị.
- Đối với toàn bộ nền kinh tế, dù là quốc gia giàu có hay nghèo nàn thì đều phải đối mặt với sự khan hiếm.

Khan hiếm là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế
Mục đích nghiên cứu kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu một cách toàn diện về hoạt động kinh tế của một khu vực hay quốc gia. Nó nghiên cứu rất nhiều vấn đề, bao gồm việc sản xuất, phân phối, tiêu thụ của các tài nguyên như nguồn vốn, lao động, đất đai,… hay ảnh hưởng của các quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó còn nghiên cứu cả các hiện tượng kinh tế phức tạp như kinh tế học tài chính, thương mại, chính sách công,…
Mục đích cốt lõi của quá trình nghiên cứu này chính là cung cấp cho chính phủ, nhà quản lý kinh tế, hoạch định chính sách và doanh nghiệp có được các nhìn tổng quan và sâu sắc về cách thức vận hành của một nền kinh tế cụ thể. Dựa vào đó để đưa ra các quyết định, chính sách phù hợp và tăng cường hiệu quả cho nền kinh tế.

Mục đích nghiên cứu kinh tế học là cung cấp thông tin, kiến thức về hoạt động của nền kinh tế
Vai trò của kinh tế học là gì?
- Cho thấy cách thức vận động của nền kinh tế, cũng như sự tương tác giữa các tác nhân kinh tế với nhau.
- Đưa ra các phân tích cụ thể về hoạt động của nền kinh tế, sự phát triển của cá nhân, doanh nghiệp và cả quốc gia.
- Cung cấp thông tin, kiến thức và giải pháp để xây dựng, cải thiện sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- Áp dụng các nguyên tắc kinh tế vào sản xuất, đời sống.
- Thúc đẩy các ngành khoa học khác như toán học, chính trị,… cùng phát triển.
10 nguyên lý kinh tế học
Nền kinh tế không có gì là bí hiểm cả, xét cho cùng, khái niệm này được dùng để chỉ “một nhóm người tác động qua lại với nhau trong cuộc đấu tranh sinh tồn”. Quy cho cùng, thì hoạt động của nền kinh tế chẳng qua chỉ là tác động tổng hợp hoạt động của các cá nhân cấu thành nền kinh tế.
Nguyên lý kinh tế học 1: Con người đối mặt với sự đánh đổi
“Mọi thứ đều có giá” – Để có được một thứ ưa thích, người ta phải bỏ ra một thứ khác mà mình thích. Nói cách khác, quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi (Trade-off) một mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu khác.
Nguyên lý kinh tế học 2: Chi phí của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó
Sự đánh đổi liên quan đến lợi ích và tổn thất, vì vậy trong quá trình ra quyết định, ta thường so sánh giữa chi phí và lợi ích của các cách hành động khác nhau. Cái khó ở đây là trong nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động không phải lúc nào cũng rõ ràng như khi mới nhìn qua.
Ví dụ, việc quyết định đi học đại học: Ích lợi của cách hành động này là giàu thêm kiến thức và có cơ hội có được công việc làm tốt hơn trong suốt cả cuộc đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Nó chính là tổng cộng các khoản tiền phải trả để có được việc học hành này (học phí, tài liệu, sinh hoạt phí,…). Nhưng tổng số tiền đó thực sự chưa phải là toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học đại học.
Ví dụ trên cho thấy:
Thứ nhất, nó bao gồm cả những thứ không thực sự là chi phí cho việc học đại học. Kể cả không phải học đại học, người ta vẫn phải chi phí sinh hoạt, vẫn phải chi cho ăn uống, chỗ ở. Tiền ăn uống ở trường đại học chỉ trở thành chi phí cho việc học đại học khi nó cao hơn ở những nơi khác. Cũng có khi, sinh hoạt phí ở trường đại học có thể rẻ hơn những nơi khác – Trường hợp này, số tiền tiết kiệm được trở thành ích lợi cho việc học đại học.
Thứ hai, nó bỏ qua khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học là thời gian của việc học. Khi dành một khoảng thời gian để nghe giảng, đọc tài liệu và viết tiểu luận, người ta không thể sử dụng nó để làm việc khác. Nhiều người hiểu rằng tiền lường phải từ bỏ do không đi làm để đi học đại học là khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học.
Chi phí cơ hội (opportunity cost) của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó. Khi quyết định bất kỳ việc gì (chẳng hạn đi học đại học), người ra quyết định phải xem xét đến chi phí cơ hội gắn với các hành động có thể thực hiện. Chi phí cơ hội của các vận động viên thể thao ở lứa tuổi sinh viên có thể rất cao – họ có thể kiếm được rất nhiều tiền nếu bỏ học, để chơi các môn thể thao nhà nghề. Đương nhiên, mọi người hiểu rằng, ích lợi của việc học đại học là quá nhỏ so với chi phí.
Nguyên lý kinh tế học 3: Con người hành động hợp lý (rational people) suy nghĩ tại điểm cận biên
Các quyết định trong cuộc sống hiếm khi được đưa ra dưới dạng có hoặc không, mà thường là dưới dạng tăng thêm hay giảm đi một lượng nào đó. Khi đến giờ ăn tối, bạn phải đối mặt không phải là ăn hay không ăn, mà là có nên ăn thêm một ít cơm hoặc thức ăn không. Khi kỳ thi đến, vấn đề không phải là bỏ mặc bài vở hay học 24 giờ một ngày, mà là nên học thêm một tiếng nữa hay dừng lại để lên mạng Wikipedia. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ và tăng dần trong kế hoạch hành động hiện tại. Cận biên có nghĩa là lân cận một cái gì đó và bởi vậy thay đổi cận biên là những điều chỉnh ở vùng lân cận.
Nhiều trường hợp, mọi người đưa ra được quyết định tối ưu nhờ tính đến điểm cận biên; bằng cách so sánh ích lợi cận biên và chi phí cận biên.
Nguyên lý kinh tế học 4: Con người phản ứng lại các kính thích
Con người ra các quyết định dựa trên sự so sánh chí phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi chi phí, ích lợi hoặc cả hai thay đổi
Nguyên lý kinh tế học 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
Nguyên lý kinh tế học 6: Thị trường thường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế
Tham khảo: Lý thuyết bàn tay vô hình – nhà kinh tế học Adam Smith
Nguyên lý kinh tế học 7: Đôi khi chính phủ cải thiện được kết cục của thị trường
Thúc đẩy hiệu quả và công bằng của xã hội là hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Nghĩa là, hầu hết các chính sách đều nhằm vào mục tiêu vừa làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên và vừa làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó.
Tham khảo: Lý thuyết bàn tay hữu hình -Keynes
Nguyên lý kinh tế học 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất của nước đó
Hầu hết sự khác biệt về mức sống có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của mỗi quốc gia (số lượng hàng hóa được làm ra trong mỗi một giờ lao động của một công nhân). Ở những quốc gia, người lao động sản xuất ra được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, thì hầu hết người dân được hưởng mức sống cao; còn những quốc gia có năng suất kém hơn, thì hầu hết người dân phải chịu cuộc sống khó khăn. Thực chất, tốc độ tăng năng suất lao động của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó.
Nguyên lý kinh tế học 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền
Lạm phát: Sự gia tăng của mức giá chung
Trong dài hạn, nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát chính là sự gia tăng quá mức của lượng tiền làm cho tiền mất giá. Khi Chính phủ phát hành ra một lượng tiền lớn, giá trị của tiền sẽ giảm.
Xem thêm: Mối liên hệ giữa lạm phát, thất nghiệp , tăng trưởng
Nguyên lý kinh tế học 10: Trong ngắn hạn Chính phủ đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
Nếu lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách lại gặp rắc rối trong việc chèo lái con thuyền kinh tế? Một lý do là mọi người cho rằng chính sách cắt giảm lạm phát thường gây ra sự gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đồ thị minh họa cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi là đường phillips (Phillips curve).
Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến kinh tế học là gì hay ý nghĩa của 10 nguyên lý kinh tế học – Economics mà Giaodichtaichinh muốn chia sẻ đến bạn. Có thể thấy, đây là một ngành khoa học phức tạp nhưng cũng rất thú vị, cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về cách thức vận động của nền kinh tế. Nếu muốn tìm hiểu sâu hơn hoặc có bất kỳ thắc mắc nào khác, hãy để lại bình luận ngay bên dưới cùng Giaodichtaichinh nhé!
Nguồn tham khảo:
Kinh tế học – Wikipedia.
Kinh tế học vĩ mô – NEU & FTU
[…] lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh (trong kinh tế học, người ta gọi là nền kinh tế “quá nóng”), lạm phát bùng nổ thì […]